Trên thực tế, tại Việt Nam cũng như các nước tiên tiến, có rất nhiều các phương pháp điều trị tự kỷ được cho là có hiệu quả. Tuy nhiên vì có quá nhiều phương pháp nên phụ huynh khá bối rối trong việc nên lựa chọn phương pháp nào để điều trị cho con mình. Bên cạnh đó, khi bạn nhờ tới sự tư vấn các các bác sĩ và những bậc phụ huynh có con tự kỷ, bạn sẽ nhận được những lời khuyên khác nhau. Điều đó sẽ càng làm cho bạn cảm thấy băn khoăn hơn.Lựa chọn phương pháp can thiệp tự kỷ cho trẻ là câu hỏi của rất nhiều phụ huynh, bởi mỗi trẻ tự kỷ khác nhau sẽ cần có hướng can thiệp khác nhau.
I Phương pháp ABA: ( Applied Behaviour Analysis- Ứng dụng phân tích hành vi).
ABA là biện pháp được quan tâm nhiều nhất trong trị liệu trẻ tự kỷ, được đánh giá là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Đây là một biện pháp tiếp cận khoa học nhằm hiểu rõ hành vi của trẻ. Các nguyên tắc trị liệu được ứng dụng cho những hành vi quan trọng mang tính xã hội. Biện pháp này được sáng tạo ra dựa trên các lý thuyết khoa học về hành vi. Đối với mỗi trẻ, ngay khi bắt đầu chương trình can thiệp, trẻ sẽ được đánh giá ban đầu để kiểm tra xem kỹ năng nào trẻ đã có, kỹ năng nào chưa có. Sau đó lựa chọn các bài tập, các tài liệu phù hợp với đánh giá ban đầu. Nội dung rèn luyện chung cũng như của từng buổi sẽ liệt kê từng kỹ năng trong mọi lĩnh vực (giao tiếp, xã hội, kiến thức, tự chăm sóc, vận động, chơi..) các kỹ năng này thường được chia nhỏ thành các kỹ năng thành phần và được sắp xếp theo trình tự phát triển, từ đơn giản đến phức tạp.
Ưu điểm
– ABA rất hiệu quả để dạy TTK những kỹ năng mới, những hành vi mới.
– Có thể áp dụng ở mọi tình huống, mọi nơi.
– Cách dạy rõ ràng, dễ dạy.
– Chia bài tập thành nhiều phần đơn giản.
– Hữu hiệu trong chuyển hoá hành vi tiêu cực.
Khuyết điểm:
– Cần nhiều thì giờ.
– Ảnh hưởng đến thời gian của trẻ với gia đình.
– Không giúp được cho TTK đáp ứng với hoàn cảnh mới.
II. Biện pháp TEACCH ( Division of Treatment and Education of Autistic and Children with Communication Handicaps )
Chương trình này đã được thực hiện trong cả một tiểu bang của Mỹ, bắt đầu ở trường Đại học Y, Đại học North Califolia. Biện pháp này là định hướng điều trị và giáo dục TTK và trẻ khuyết tật về giao tiếp. Các kỹ năng học của trẻ được đánh giá bằng PEP: những biểu hiện tâm lý giáo dục.
Teacch khác với tiêu chuẩn phát triển “ bình thường” bắt đầu ở mức độ của trẻ và giúp trẻ phát triển đến mức cao nhất có thể.
Những bài học cụ thể của chương trình TEACCH
- Bắt chước (Imitation).
- Nhận thức (Perception).
- Vận động thô (Gross motor).
- Vận động tinh (Fine Motor).
- Phối hợp mắt và tay (Eye-hand intergration).
- Kỹ năng hiểu biết (Cognitive performance).
- Kỹ năng ngôn ngữ (Verbal performance).
- Kỹ năng tự lập (Self-help).
- Kỹ năng bắt chước xã hội (Social performance).
Ưu điểm:
– Có cả một chương trình đáp ứng nhu cầu của trẻ.
– Giúp TTK hiểu được các yêu cầu và cách thức đáp ứng.
– Tập trung vào những kỹ năng đã có của trẻ chứ không chỉ nhìn vào những khuyết điểm.
Khuyết điểm
– Rất gò bó, tập trung vào những đồ dùng giảng dạy nh bảng, soạn chương trình.
– Cần nhiều nhân lực để thực hiện
III.Biện pháp PECS (picture exchane communication system – hệ thống giao tiếp trao đổi hình).
Biện pháp này được nhà tâm lý nhi, Andrew Bondy và nhà âm ngữ trị liệu- Lori Frost đề ra trong chương trình tự kỷ Delaware. Biện pháp này dựa trên biện pháp ABA để đổi hình ảnh theo những gì mà trẻ muốn. Khoảng 50% trẻ tự kỷ không nói nhưng bạn vẫn dạy quy tắc là con phải tỏ ý cho trẻ không biết nói, đó là cấu hình theo phương pháp PECS. Cách dạy PECS là từ những hình riêng lẻ trẻ sẽ xếp đặt thành câu nhiều chữ, đầu tiên trẻ phải đưa bình nước cho cha mẹ để được uống nước, hay chỉ vào ly nước dán trên cửa tủ lạnh, từ đó mở rộng dần những ý khác. Có e ngại là cách dạy này ảnh hưởng đến việc học nói của trẻ nhưng thực tế thấy nó không cản trở việc học nói sau này cho trẻ nói chậm, cha mẹ không nên lo ngại là nếu dùng hình thì trẻ sẽ không biết nói về sau mà ngược lại có ghi nhận là PECS giúp cải thiện khả năng nói của trẻ. Có trẻ dùng PECS vài tháng rồi tập nói được, nhưng ta không biết đó là phát triển tự nhiên tới lúc thì em nói không cần có PECS hay nhờ PECS mà em tập nói. Khi cha mẹ và trường sử dụng nhiều biện pháp cùng thì kết quả khó biết là do riêng biện pháp nào hay do nhiều cách hợp lại, mà cũng có khi nó sẽ tới khi em phát triển đúng mức.
Ưu điểm:
– Rõ ràng, có chủ ý, trẻ chủ động tham gia
– Phát triển giao tiếp chức năng nhanh
– Có thể mở rộng trình độ giao tiếp
– Phát triển được lời nói
Khuyết điểm:
– Cần nhiều thời gian chuẩn bị tài liệu và hình ảnh
– Chỉ tập trung vào khả năng giao tiếp, bỏ qua các lĩnh vực xã hội, vận động
IV.Biện pháp DIR( Floor Time-cùng chơi với trẻ )
Biện pháp này được hai bác sĩ tâm thần nhi, Stanley Greenspan và Serena Weider đề ra. Chương trình gồm ba yếu tố:
-Dựa trên sự phát triển cảm xúc.
-Sự khác biệt cá nhân,
-Dựa trên mối quan hệ.
1. Dựa trên sự phát triển cảm xúc
Có 6 giai đoạn phát triển cảm xúc trẻ cần phát triển để có nền học hỏi, đó là:
+ Tự điều chỉnh và quan tâm đến thế giới bên ngoài.
+ Sự gần gũi.
+ Giao tiếp hai chiều.
+ Giao tiếp phức tạp.
+ Giao tiếp phức tạp.
+ Cảm xúc.
+ Suy nghĩ với cảm xúc.
2. Khác biệt cá nhân
Xử lý thính giác, giao tiếp không lời hay bằng cử chỉ, khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ, xử lý thị giác – không gian, đặt kế hoạch vận động và làm theo chuỗi, phản ứng cảm giác và tự quản lý.
3. Dựa trên mối quan hệ
+ Nhằm phát triển cảm xúc thay vì phát triển trí tuệ.
+ 6 giai đoạn phát triển cảm xúc để trẻ đạt được những kỹ năng cơ bản cho việc học hỏi sau này.
Chương trình DIR thường gồm ba phần:
+ Phụ huynh chơi với trẻ 3- 5 tiếng trong những buổi 20 -30 phút trong ngày.
+ Nhà âm ngữ trị liệu, hoạt động trị liệu, vật lý trị liệu, giáo viên, tâm lý và các lĩnh vực khác cùng làm việc với trẻ.
+ Phô huynh nhận xét về cách đáp ứng và cách tương tác dựa trên các giai đoạn phát triển cảm xúc.
Ưu điểm:
– Nhằm phát triển cảm xúc thay vì phát triển trí tuệ
– Khuyến khích trẻ chủ động tương tác
– Phụ huynh đóng vai trò chính trong việc trị liệu
Khuyết điểm:
– Không dạy cách học, cách phát triển trí tuệ nh những trẻ khác
– Hơi khó tương tác ban đầu với trẻ.
V.Hoà nhập cảm giác ( SI –Sensory Intergration)
Trẻ tự kỷ có thể có những phản ứng không đủ hoặc là quá nhạy cảm, hoặc thiếu khả năng hoà hợp các giác quan. Biện pháp này tập trung vào giúp trẻ bớt nhạy cảm, giúp tổ chức lại thông tin cảm giác và thường do những người hoạt động trị liệu, vật lý trị liệu hoặc âm ngữ trị liệu điều trị. Điều quan trọng là nhà trị liệu phải quan sát và hiểu các nhạy cảm của trẻ. Trị liệu hoà hợp thính giác giảm sự quá nhạy cảm với âm thanh bằng cách nghe nhiều loại âm thanh cao thấp. Hoặc kích thích trẻ bằng áp lực mạnh để trẻ chịu đựng người khác hoặc là sự vật đụng chạm đến mình.
1.Biện pháp tâm lý- giáo dục
a.Trị liệu phân tâm
Biện pháp này chủ yếu là chơi và nói chuyện, nhằm giúp trẻ và gia đình giải tỏa những căng thẳng dồn nén trong quá khứ, hệ thống lại cấu trúc nhân cách của trẻ. Trong trị liệu phân tâm sẽ giúp cải thiện bầu không khí gia đình, giúp mọi người thấu hiểu thực tại và chấp nhận thực tại tốt hơn, mọi người sẽ vui vẻ hơn trong giao tiếp và chăm sóc trẻ. Điều này giúp trẻ tự kỷ cải thiện tình huống giao tiếp và hình thành sự tiếp xúc qua lại. Khuyến khích trẻ hợp tác trong mọi hoạt động sinh hoạt của gia đình, nhà trường và xã hội; từ đó, tình trạng tự kỷ của trẻ được cải thiện dần dần.
Đây là hình thức trị liệu dựa theo phương pháp phân tâm của S.Freud
Ưu điểm:
– Trẻ trở nên vui vẻ hơn, bớt hung tính
– Có tình cảm sâu sắc và tin tưởng nhà trị liệu
– Trẻ chủ động hơn, thoải mái bày tỏ bản thân
Khuyết điểm:
– Cần nhiều thời gian
– Không dạy được nhiều kỹ năng cơ bản, không ngăn chặn được hành vi xấu.
– Không dạy được ngôn ngữ và giao tiếp theo cách học thông thường.
– Có nhiều tình huống nhà trị liệu không tự chủ được và không tiên lượng được kết quả trị liệu.
b.Trị liệu tâm vận động
Một biện pháp kích thích trẻ hoạt hóa hành vi. Quan điểm chi phối của biện pháp là: Vận động (hoạt động) của cơ thể sẽ dẫn đến sự nhanh nhạy hệ thần kinh và tác động đến phát triển tâm lý, vận động về cơ thể càng tăng thì vận động về tâm lý tăng theo; phát triển vận động sẽ dần phát triển tâm lý. Đồng thời sự phát triển tâm lý sẽ kéo theo sự phát triển vận động. Biện pháp này giúp những trẻ em gặp các vấn đề khó khăn về tâm lý có khả năng phối hợp các chức năng tâm trí tản mạn, hướng trẻ đến những hoạt động tâm lý có ý nghĩa cho chính trẻ em đó và cho những người xung quanh. Khả năng hợp tác của trẻ được tăng lên khi áp dụng biện pháp.
c. Trị liệu ngôn ngữ và chỉnh âm
Đây là biện pháp can thiệp thường thấy nhất ở trẻ tự kỷ. Trẻ tự kỷ có khó khăn về liên hệ. Điều này bị chi phối lớn bởi ngôn ngữ và lời nói. Theo các chuyên gia âm ngữ trị liệu, nếu trẻ tự kỷ biết nói sẽ ảnh hưởng rất tốt cho sự phát triển trong tương lai. Nên chỉnh âm là một phần đặc biệt quan trọng cho trị liệu. Trị liệu thường được áp dụng cho từng trẻ một, diễn ra từ mụ̣t đờ́n hai tuần một lần và đôi khi kéo dài nhiều năm. Mục tiêu và biện pháp được soạn dựa vào khả năng ngôn ngữ của trẻ.
– Không cần nhiều người.
– Không mất nhiều thời gian của nhà trị liệu.
– Không phải soạn chương trình nhiều. Chỉ cần dựa vào biểu hiện đang có của trẻ để thiết kế bài dạy tiếp theo.
– Nhà trị liệu đóng vai trò chính
– Dễ tương tác ban đầu.
– Không làm dứt được các cơn nóng giận của trẻ.
– Trẻ thụ động trong trị liệu.
– Không ngăn được hành vi xấu, không thiết lập được hành vi mới.
– Không giảm được chứng tăng động, mất tập trung của trẻ.
Hiện nay biện pháp trị liệu ngôn ngữ hay được dùng nhất là biện pháp VBA – phân tích hành vi ngôn ngữ nói. VBA là biện pháp ứng dụng khoa học phân tích hành vi vào trong việc huấn luyện ứng xử ngôn ngữ nói. Biện pháp này cũng sử dụng các kỹ thuật của biện pháp phân tích hành vi ứng dụng ABA. VBA là một biện pháp dành để can thiệp cho những trẻ chậm nói, trẻ có rối loạn về lĩnh vực ngôn ngữ, rối loạn phát âm.
d. Biện pháp giáo dục đặc biệt
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, giáo dục đặc biệt cho trẻ tự kỷ là một việc thông thường. Do trẻ tự kỷ bị rối loạn phát triển nên có rất nhiều khiếm khuyết: trí tuệ, giao tiếp, xúc cảm, tình cảm, ngôn ngữ, tự phục vụ… Thông qua giáo dục sẽ giúp trẻ hiểu và có kỹ năng hòa nhập xã hội, tăng cường khả năng giao tiếp, giúp nhận thức sự vật và hiện tượng xung quanh, hiểu biết và quan tâm đến những ứng xử tình cảm của người khác, tăng cao khả năng hội nhập cộng đồng.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số biện pháp khác sau đây để trị liệu cho trẻ tự kỷ.
VI.Phương pháp OT ( Occupatoin Therapy – hoạt động trị liệu)
OT Đưa ra những hỗ trợ cho TTK mà có khó khăn trong các giác quan, vận động, cơ lực và các kỹ năng thăng bằng.
Dùng các kỹ thuật massage và cho trẻ chơi trên bạt, lò xo, bóng cao su to, bể bơi…tất cả những thứ này được dùng để trẻ trở nên nhận thức hơn về cơ thể mình và có khả năng sử dụng cơ thể trong các cách khác nhau. Có thể thấy biện pháp này là tổng hợp của biện pháp điều hoà cảm giác và tâm vận động.
VII.Biện pháp COMPC (Communication Picture)
Là biện pháp xuất hiện lần đầu tiên ở Úc, nhằm dạy trẻ cách thức giao tiếp thông qua hình ảnh bằng cách chụp những hình ảnh trẻ quan tâm thích thú, hình ảnh quen thuộc, phong cảnh ở nơi trẻ đã đến. Với những hình ảnh trẻ thích và những đồ vật quen thuộc sẽ giúp trẻ học tốt hơn.
VIII.Biện pháp PCS (Picture Communication Symbols)
Đây là biện pháp do Johonson, người Mỹ đưa ra năm 1981 với mục đích dạy trẻ hiểu những ký hiệu giao tiếp thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. biện pháp này chủ yếu áp dụng cho những trẻ tự kỷ nặng, không có khả năng nói.
IX.Các biện pháp y sinh học
- Sử dụng hóa dược
- Giải độc hệ thống
- Ăn kiêng
- Vật lý trị liệu
- Bấm huyệt
- Nerofeedback
Phản hồi thần kinh (NFB), cũng được gọi là trị liệu thần kinh, phản hồi sinh học thần kinh hay phản hồi sinh học qua điện não đồ (EEGBF) EEG là một kỹ thuật chữa bệnh bằng việc phản hồi tức thời trên hoạt động của sóng điện não, như được đo bởi những điện cực trên da đầu, biểu hiện điển hỡnh trờn màn hình video. Mục tiêu sẽ cho phép điều khiển có ý thức hoạt động của sóng điện nóo.Với biện pháp này có thể hỗ trợ tích cực khi muốn trẻ tự kỷ tương tác với kích thích trong điều trị.
X.Oxy cao áp(hyperbaric oxygen – HBO)
HBO là một điều trị y học trong đó bệnh nhân được đặt trong môi trường ụ-xy tinh khiết gần như 100% với áp lực lớn hơn 1,4 atmosphere. Ngoài hô hấp, lượng ô-xy thấm qua da và hòa tan trong huyết tương sẽ tăng 22 – 30 lần so với ô-xy trong máu người bỡ́nh thường. Ô-xy cao áp vừa có tác dụng điều trị, vừa có tác dụng điều dưỡng. HBO có hai tác dụng làm giảm kích thước những bệnh khó gặp trong những bệnh tắc mạch như bệnh giảm áp, hoại thư hay gia tăng ô-xy trong tất cả các mu trong cơ thể. Nếu cho bệnh nhân thở ô-xy nguyên chất ở áp suất 3 atmosphere thì lượng ô-xy ḥòa tan trong máu sẽ lớn hơn trên 20 lần so với bình thường.
Ngoài ra còn có một số phương pháp khác như: Trị liệu thông qua âm nhạc, mỹ thuật và động vật; Biện pháp cắt khúc thời gian ( More than words); Computer;Trị liệu tế bào gốc (Term cell therapy)...
Tóm lại, dù có đặt thành biện pháp này hay biện pháp khác, dù có chứng minh sự khác nhau của các biện pháp, thì các biện pháp vẫn tựu trung ở một điểm: trẻ tự kỷ phải nói được hoặc ít nhất phải hiểu được ngôn ngữ thì mới có thể giao tiếp được, bộc lộ được các nhu cầu tối thiểu của bản thân theo cách này hay cách khác.
Do trẻ tự kỷ bị rối loạn phát triển nên có rất nhiều khiếm khuyết: trí tuệ, giao tiếp, xúc cảm, tình cảm, ngôn ngữ, tự phục vụ… Thông qua giáo dục đặc biệt sẽ giúp trẻ hiểu và có kỹ năng hòa nhập xã hội, tăng cường khả năng giao tiếp, giúp nhận thức sự vật và hiện tượng xung quanh, hiểu biết và quan tâm đến những ứng xử tình cảm của người khác, tăng cao khả năng hội nhập cộng đồng.Những nước trên thế giới có nền giáo dục phát triển, việc giáo dục trẻ tự kỷ thường sớm hơn trẻ bình thường. Xu hướng hiện nay là giáo dục cho trẻ tự kỷ ngay sau khi đưa ra chẩn đoán. Việc giáo dục trẻ tùy thuộc vào khả năng nhận thức và hành vi của trẻ; mục tiêu, chương trình và phương pháp đều được thiết kế dựa vào mức độ trí tuệ của trẻ. Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, giáo dục đặc biệt cho trẻ tự kỷ là một việc thông thường. Ở môi trường giáo dục đặc biệt như Trung tâm Sao Mai và một số Trung tâm khác, giáo viên, chuyên gia, nhà trị liệu có thể lựa chọn kết hợp các phương pháp trị liệu tiên tiến trên thế giới có nhiều ưu việt đã được chuẩn ở Việt Nam để can thiệp cho trẻ, giúp trẻ có nhiều tiến bộ để hòa nhập.